Non - stress test và stress test

NST và ST là 2 phương pháp đánh giá sức khỏe thai nhằm xác định thai kỳ nguy cơ cao nhằm giảm thiểu nguy cơ tử vong thai nhi.

NON-STRESS TEST (NST) VÀ STRESS TEST (ST)
(Nguồn: Thực hành sản phụ khoa – Nhà xuất bản Y học)
 
NST và ST là 2 phương pháp đánh giá sức khỏe thai nhằm xác định thai kỳ nguy cơ cao nhằm giảm thiểu nguy cơ tử vong thai nhi.
  1. NON-STRESS TEST
Là thử nghiệm dựa trên giả thuyết rằng nhịp tim thai trong trường hợp không có nhiễm toan so thiếu oxy mô hay bị ức chế thần kinh sẽ nhất thời tăng đáp ứng với cử động thai.
  1. Cơ sở sinh lý
Thai nhi có chu kỳ thức ngủ trung bình 70-90 phút.
Trong giấc ngủ cử động thai mất nhanh và trong thời gian thức, cử động của các chi mình, cử động thai thường đi kèm với sự gia tăng nhịp tim thai.
Cử động thai không có trong các trường hợp:
  • Thai ngủ sâu.
  • Có bất thường nào đó của hệ thần kinh trung ương thai.
  • Sau khi sản phụ dùng thuốc an thần, thuốc ngủ hay uống rượu.
  • Khi thai bị nhiễm toan do thiếu oxy.
  • Thai non tháng thường ít có nhịp tim thai tăng với cử động mắt.
Lưu ý:
  Thai < 28 tuần thường không đáp ứng (NST không đáp ứng), ngay cả ở thai 32 tuần mà NST không đáp ứng vẫn có thể là bình thường. Tuy nhiên, NST không đáp ứng ở tuổi thai >32 tuần thì ta cần đánh giá thêm sức khỏe thai nhi bằng các test khác như trắc đồ vật lý (BPP).
 
  1. Cách thực hiện
  • Đặt sản phụ nằm nghiêng vê một bên hoặc tư thế Fowler.
  • Nên thực hiện sau khi sản phụ ăn vì thai nhi thường hoạt động nhiều giờ sau khi ăn 1-2 giờ.
  • Hướng dẫn sản phụ ấn nút khi thấy thai máy. Đặt monitor ghi tim thai, cơn gò, cử động thai.
  • Thực hiện 20 phút  nếu có đáp ứng.
  • Sau 20 phút vẫn chưa đáp ứng, lắc thai qua thành bụng và theo dõi thêm 25 phút nữa, nếu vẫn không đáp ứng xem như NST không đáp ứng.
  1. Phân tích kết quả
  1. NST có đáp ứng
  • Nhịp tim thai cơ bản 120-160 lần/phút.
  • Biên độ giao động của nhịp tim thai cơ bản > 10 nhịp.
  • Nếu trong 20 phút có ít nhất 2 cử động tai đi kèm với nhịp tim thai tăng >15 nhịp và kéo dài >15 giây.
  1. NST không đáp ứng
  • Nếu trong 45 phút không đạt các tiêu chuẩn NST có đáp ứng.
  1. Ngoài ra cần ghi nhận thêm các tiêu chuẩn sau:
  • Nhịp tim cơ bản.
  • Dao động nội tại và biên độ.
  • Các dạng bất thường tim thai khác như: Nhịp tim thai hình sin, nhịp tim thai phẳng, nhịp giảm muộn, nhịp giảm bất định.
  1. Xử trí lâm sàng
  • Nếu NST đáp ứng: Thai kỳ được theo dõi tiếp và lặp lại thử nghiệm vào 3 ngày sau.
  • Nếu NST không đáp ứng:
  • NST không đáp ứng sau 45 phút, có thể thực hiện lại NST sau khi cho sản phụ ăn no, kích thích bằng tay hoặc bằng âm thoa để giảm tỷ lệ không đáp ứng giả.
  • Nếu NST vẫn không đáp ứng, hoặc nhịp giảm kéo dài > 3 phút và nặng (>90 lần/phút) hoặc biểu đồ tim thai không có nhịp tăng (hay tăng ít hơn 10 nhịp) kéo dài trên 80 phút thì nên chấm dứt thai kỳ (mổ lấy thai đối với thai trưởng thành).
Lưu ý:
  • Độ nhạy của NST là 97%, có giá trị tiên đoán dương cua NST là 15 %.
  • Một NST không đáp ứng hay mất những dao động nội tại. tự nó không cho phép thực hiện một test chẩn đoán khác nữa, tuy nhiên vì giá trị  dự báo dương của NST thấp nên nhiều tác giả đề nghị thực hiện thêm stress test hay tăng cường việc theo dõi sức khỏe thai bằng các test.
    • Một NST không đáp ứng hay mất giao động nội tại, tự nó không cho phép thực hiện một test chẩn đoán khác nữa, tuy nhiên giá trị dự báo dương của NST thấp nên nhiều tác giả đề nghị thực hiện thêm stress test hay tăng cường việc theo dõi sức khỏe thai bằng các test khác như: BPP (Biophysical Profile) hoặc siêu am Doppler đánh giá lưu lượng tuần hoàn nhau thai.
 
  1. STRESS TEST
  1. Cơ sở sinh lý
Cơn gò tử cung chèn ép các động mạch xoắn cung cấp máu cho nhau làm giảm lưu lượng máu đến nhau thai, từ đó gây giảm oxy và những chất dinh dưỡng cho thai.
Khi thai có dự trù đầy đủ, sẽ dung nạp được những thay đổi tạm thời, tim thai sẽ không thay đổi hoặc thay đổi không có hại trong cơn gò.
Khi dự trữ giảm, cơn gò sẽ gây ra nhịp giảm muộn qua trung gian một phản xạ áp cảm thụ quan, do vậy nhịp giảm muộn nói lên sự tổn thương thai hoặc bất cứ khi nào lưu lượng máu của nhau thai hay sự cung cấp oxy cho thai bị giảm (ví dụ như: hội chứng hạ huyết áp tư thế ngửa, giảm oxy mẹ hoặc thiếu máu nặng).
Với cơ sở sinh lý như trên, ST là thử nghiệm được thực hiện sự trên sự đáp ứng của nhịp tim thai khi có cơn gò tử cung vì tin rằng sự cung cấp oxy cho thai nhi sẽ tạm thời bị giảm khi có cơn gò tư cung, nhằm lượng giá khả năng chịu đựng của thai khi vào chuyển dạ, nghĩa là giá trị  ST quyết định phương thức sanh của thai kỳ, hoặc sanh ngã âm đạo hoặc mổ sanh. Chính vì vậy mà chỉ thực hiện ST khi đã có chỉ định chấm dứt thai kỳ.
  1. Chỉ định
    • ST được làm bất cứ khi nào nghi ngờ thai bị nguy hiểm.
    • Nếu ST âm tính, có thể lập lại mỗi tuần miễn là ST vẫn còn âm tính.
  2. Chống chỉ định: ST không được thực hiện khi nó có thể gây các hậu quả sau đối với sản phụ
    • Vỡ tử cung ở sản phụ có tiền căn mổ sanh, bóc nhân xơ hoặc chỉnh hình tử cung dị dạng.
    • Sanh non ở sản phụ bị ối vỡ non, dọa sanh non, đa ối, đa thai, đa thai, hở eo tử cung.
    • Xuất hiện ở sản phụ có nhau tiền đạo, xuất huyết âm đạo không rõ nguyên nhân.
  3. Cách thực hiện
    • Đặt sản phụ ở tư thế Fowler hoặc nằm nghiêng về một bên để tránh hội chứng hạ huyết áp tư thế nằm ngửa.
    • Ghi nhận huyết áp thai phụ lúc ban đầu và ít nhất mỗi 10 phút trong khi làm nghiệm pháp.
    • Ghi nhận nhịp tim và cơn gò tử cung bằng monitor trong 15-20 phút.
    • Nếu ngẫu nhiên có cơn gò tử cung kéo dài 40-60 giây và lặp lại 3 lần/10 phút thì đánh giá sự đáp ứng của tim thai với cơn gò.
    • Nếu không có cơn gò thì phải gây ra cơn gò bằng kích thích đầu vú (BST = Breast Stimulating Test) hoặc truyền tĩnh mạch với oxytocin bắt đầu 0,5 mIU/phút, tăng gấp đôi mỗi 15-20 phút, cho đến khi có được 3 cơn gò/10 phút.
    • Quan sát tim thai khi có ít nhất 3 cơn gò tử cung (nhưng không quá 5 cơn) trong 10 phút, lúc đó ngưng kích thích tử cung và quan sát tim thai cho đến khi cơn gò giảm.
    • Quá trình kích thích với BST hoặc oxytoxin đòi hỏi thực hiện từ 1-2 giờ mới hoàn tất.
  4. Kết quả
Theo phân loại Freeman (1975)
  • ST âm tính: biểu đồ tim thai không có nhịp giảm khi có ít nhất 3 cơn gò/10 phút, mỗi cơn kéo dài ít nhất 40 giây.
  • ST nghi ngờ: biểu đồ tim thai có nhịp giảm nhưng không hằng định và không xảy ra trong những cơn gò sau.
  • ST dương tính: biểu đồ tim thai có nhịp giảm hằng định và kéo dài.
Lưu ý:
  • Tăng kích thích: nếu cơn gò tử cung kéo dài > 90 giây và > 5 cơn co trong 10 phút, hoặc tăng trương lực cơ bản kéo dài thì sự xuất hiện của nhịp giảm không nhất thiết chỉ ra bệnh lý tử cung nhau.
  • Không thỏa đáng: khi có ít hơn 3 cơn gò trong 10 phút hoặc cường độ cơn gò yếu.
  1. Xử trí lâm sàng
    • ST âm tính: là một dấu hiệu tốt cho sức khỏe thai, có thể lặp lại test mỗi tuần.
    • ST dương tính:
  • Có thể xuất hiện do hạ đường huyết áp do tư thế nằm ngửa, dị dạng thai nhi, giảm khả năng vận chuyển oxy tỏng máu mẹ, suy tử cung nhau thật sự.
  • Kết hợp với NST không đáp ứng khi thai trưởng thành: chấm dứt thai kỳ (mổ lấy thai).
  • Kết hợp với NST đáp ứng: thường là ST dương tính giả, có thể lặp lại test trong 24 giờ hoặc làm các xêt nghiệm đánh giá khác.
  • ST nghi ngờ hoặc tăng kích thích: Nên lặp lại test trong vòng 24 giờ. ST nghi ngờ có thể chỉ ra một thai nhi khỏe mạnh hoặc thai nhi mới bị suy thai, nếu kèm với NST đáp ứng thì thai có thể vẫn khỏe mạnh./.

các bài viết khác