Xuất tinh máu
Xuất tinh ra máu là tình trạng có máu lẫn trong tinh dịch khi xuất tinh. Thông thường xuất tinh máu là bệnh lành tính và tự khỏi nhưng rất hay tái phát (đối với những người trẻ tuổi, dưới 40). Trong một số trường hợp thì đây lại là một triệu chứng của một bệnh lý ác tính (đối với người có tuổi, trên 40).
XUẤT TINH RA MÁU
(Nguồn: Tài liệu hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ CSSKSS)
- ĐỊNH NGHĨA
Thông thường xuất tinh máu là bệnh lành tính và tự khỏi nhưng rất hay tái phát (đối với những người trẻ tuổi, dưới 40). Trong một số trường hợp thì đây lại là một triệu chứng của một bệnh lý ác tính (đối với người có tuổi, trên 40).
- NGUYÊN NHÂN
- Viêm và nhiễm khuẩn
Các nguyên nhân gây viêm là do nhiễm khuẩn, chấn thương, sỏi túi tinh, canxi hóa tiền liệt tuyến. Nhiễm khuẩn thường gặp như: enterobacteria (chủ yếu là Escherichia coli) Chlamydia, Gram dương, trực khuẩn lao và một số loại virus. Cần chú ý là lao là nguyên nhân chủ yếu ở Việt Nam.
- Tắc túi tinh và các nang túi tinh
- Ung thư
- Các bệnh toàn thân
- Nhóm do các thủ thuật (do thầy thuốc gây ra)
- Giãn tĩnh mạch niệu đạo
- PHÂN TUYẾN KỸ THUẬT:
- CHẨN ĐOÁN
- Chẩn đoán xác định
- Lâm sàng: tinh dịch có màu đỏ, màu nâu hoặc màu rỉ sắt.
- Cận lâm sàng: Xét nghiệm có nhiều hồng cầu trong tinh dịch.
- Chẩn đoán nguyên nhân
Phân tích nước tiểu, nuôi cấy vi khuẩn nước tiểu và làm kháng sinh đồ, tìm tế bào ác tính trong nước tiểu.
2.2. Các xét nghiệm tinh dịch
Làm tinh dịch đồ để tìm hồng cầu và bạch cầu, nuôi cấy tìm vi khuẩn và làm kháng sinh đồ, tìm tế bào ác tính trong tinh dịch.
2.3. Các xét nhiệm máu
Công thức bạch cầu, tốc độ máu lắng, các xét nghiệm đánh giá chức năng đông máu , kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiên liệt (PSA), đặc hiệu đối với bệnh nhân trên 40 tuổi.
2.5. Các xét nghiệm chẩn đoán nguyên nhân lao đường tiết niệu
Ngoài các xét nghiệm công thức bạch cầu, tốc độ máu lắng để tìm nguyên nhân, cần làm thêm các xét nghiệm sau: Mantoux, kháng thể kháng lao, phản ứng PCR với trực khuẩn lao ( bệnh phẩm là tinh dịch).
2.6. Siêu âm ổ bụng
Đánh giá tinh trạng gan, thận, bàng quang, tuyến tiền liệt.
2.7. Siêu âm qua trực tràng
Là phương tiện chẩn đoán hữu hiệu để chẩn đoán các bệnh lý khu vực túi tinh và tuyến tiền liệt như : calci hóa tiền liệt tuyến, sỏi túi tinh, giãn túi tinh, nan túi tinh, hoặc nang ống phóng tinh.
2.8. Soi niệu đạo và bàng quang
Soi bàng quang và niệu đạo có thể phát hiện các tổn thương ở niệu đạo, tuyến tiền liệt. thông thường, soi bàng quang – soi niệu đạo khi dương vật cương có thể xác định được giãn mạch của niệu đạo cũng như của tuyến tiền liệt hay các u máu niệu đọ một cách dẽ dàng.
2.9. Chụp cộng hưởng từ vùng tiểu khung
Cộng hưởng từ là một phương tiện chẩn đoán hình ảnh có giá trị nhất trong thăm dò túi tinh và tuyến tiên liệt, được chỉ định trong các trường hợp nghi ngờ bệnh lý trên siêu âm qua trực tràng.
2.10 Nội soi túi tinh
- Được chỉ định trong các trường hợp xuất tinh ra máu kéo dài trong 3 tháng mà không tìm thây nguyên nhân nào. Hoặc xuất tinh ra máu kéo dài mà phát hiện bất thường túi tinh qua siêu âm hoặc chụp cộng hưởng từ.
- Nếu người nam giới phàn nàn là có xuất tinh ra máu, cần xác định xem là có thực sự xuất tinh ra máu hay không? Hay chỉ là ngộ nhận hoặc chỉ là chảy máu từ dương vật ( ví dụ như rách hãm bao da quy đầu dương vật ) hoặc nhầm lẫn với máu từ kinh nguyệt của người bạn tình .
- Khi xác định có xuất tinh ra máu, 3 yếu ố then chốt giúp đánh giá tiếp theo: tuổi của bệnh nhân, thời gian kéo dài của triệu chứng hoặc các yếu tố nguy cơ phối hợp.
- Nam giới dưới 40 tuổi có một vài đợt xuất tinh ra máu và không có yếu tố nguy cơ hoặc triệu chứng phối hợp có thể chỉ cần đánh giá các bệnh tiết niệu sinh dục thông thường (ví dụ như viêm nhiễm đường tiết niệu), được điều trị nếu có chỉ định và tái theo dõi .
- Nam giới từ 40 tuổi trở lên có xuất tinh ra máu tái diễn nhiều lần hoặc điều trị không khỏi, có các triệu chứng hoặc yếu tố nguy cơ phối hợp, cần đánh giá rộng rãi hơn, bao gồm cả việc đánh giá xem có ung thư (ví dụ như ung thư tuyến tiền liệt) hay không.
- Xuất tinh ra máu ít, có phối hợp với nguyên do thầy thuốc gây ra thường nhẹ; vì vậy, theo dõi là cách thức điều trị phù hợp nhất.